“Các ngân hàng không được hưởng lợi từ chênh lệch lãi suất 6%”

Việc chỉ đạo lãi suất 15% / năm, trong khi lãi suất tiền gửi chỉ 9% đã nảy sinh vấn đề: ngân hàng “nuốt” lãi 6% mỗi năm, trong khi công ty tiếp tục phá sản. Làm thế nào chính xác là số này bị hỏng?

Theo phân tích của các chuyên gia ngành ngân hàng, giả sử tổ chức tín dụng huy động dưới 100 lỗ kỳ hạn dưới 12 tháng thì lãi suất năm là 9% theo mức dự trữ chung. Rủi ro NVD của kỳ hạn này phải là 3%; dự trữ thanh khoản là 10% và 87% còn lại là 87 đồng.

Do đó, lãi suất thực tế của vốn huy động để vay các chi phí khác là: 9%: 87% = 10,34% (1) – Một khoản tiền khác mà tổ chức tín dụng phải chi là dự phòng chung 0,75% trên mỗi khoản tiền huy động được (2). Lấy (1) + (2), nó sẽ là 11,09%.

Theo tính toán, giá vốn thực tế của ngân hàng là 12,09%. Ảnh minh họa: Hoàng Hà .

Ngoài ra, tổ chức cho vay còn phải nộp hàng loạt khoản phí như: khấu hao tài sản đầu tư, thiết kế sản phẩm tiền gửi, thuê trụ sở giao dịch, kết nối Internet, truyền thông, quảng bá sản phẩm. Tiền lương, mọi thứ phải được tính vào giá vốn, và bất kể mức độ hấp dẫn của nó, nên được phân bổ vào mức giá đó, tương đương với 1% của mỗi quỹ huy động được. Tóm lại, chi phí bình quân đầu người thực tế mà một tổ chức tín dụng có thể huy động là 12,09%, và chênh lệch thực tế là 15% / năm so với lãi suất Ngân hàng Quốc gia “chỉ ra”. Tất nhiên, giữa huy động và cho vay dự phòng của ngân hàng thương mại, khoản này chưa bao gồm thuế doanh nghiệp là 2,91% chứ không phải 6% như nhiều người vẫn nhắc đến. So với các loại hình đầu tư khác, tỷ suất lợi nhuận bình quân đầu người hàng năm không bao gồm thuế doanh nghiệp chỉ đạt 2,91%, quá thấp. Là tiền gửi có kỳ hạn từ 3 đến 4 tháng, lãi suất thỏa thuận từ 12% -13% -14% / năm, ngay cả khi Ngân hàng Quốc gia áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất là 9% thì các ngân hàng thương mại cũng không thể điều chỉnh mức ngay. Vì không có khách hàng nào chấp nhận yêu cầu này, nhất là trước đây, trong điều kiện khát vốn, những khách hàng có tài sản hàng tỷ USD trở lên thường so bì, đo đạc và thương lượng với ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng thương mại vẫn phải trả lãi cho khoản tiền gửi này theo hợp đồng, sau đó sẽ điều chỉnh theo nhu cầu hiện tại của Ngân hàng Quốc gia để giảm lãi. Chưa kể trong hầu hết các hợp đồng tiền gửi không kỳ hạn đều có đầu vào kỳ hạn 1-3 tháng, lãi suất bình quân cao hơn 11-13% / năm, thậm chí nhiều dự án lên tới 15% / năm, nhất là những dự án có tính thanh khoản thấp. Ngân hàng của. Do đó, so với quy định lãi suất cho vay ngắn hạn 15% / năm, các ngân hàng thương mại đã hạn chế dư địa để cân đối lãi suất. Thứ ba, ngoài các yếu tố liên quan đến giá vốn nêu trên, trong quá trình hoạt động kinh doanh, từng khoản vay nhóm 2 đến nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 phải được phân bổ theo nguyên tắc phân loại nợ, thay thế rủi ro của ngân hàng quốc gia. Do đó, như chúng ta thấy gần đây, các ngân hàng thương mại phải nỗ lực hết sức để duy trì hoạt động và đạt được mục tiêu lợi nhuận theo nghị quyết của Hội đồng quản trị, cũng như hạ lãi suất cho vay tách thửa. Chia sẻ khó khăn với công ty, nhất là khi tỷ lệ nợ xấu cao trên toàn hệ thống. Gánh nặng đang đè lên hệ thống ngân hàng. Thứ nhất, do các ngân hàng đã đảm nhận các chức năng của toàn bộ thị trường vốn, hầu hết các công ty đều có tỷ lệ lưu chuyển tiền tệ quá thấp và không thể chống đỡ khi lạm phát bùng phát, Ngân hàng Quốc gia phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Điều này đã xảy ra nhiều lần kể từ năm 2008, trái ngược hẳn với hệ thống ngân hàng của các nước phát triển. Tại Việt Nam, chưa có ngân hàng nào cho các công ty vay vốn khi tỷ lệ tự tài trợ quá thấp. Các quốc gia này xếp hạng các công ty rất chính xác và rõ ràng, và mức tài trợ phù hợp với nguyên tắc này: rủi ro càng cao, lãi suất càng cao.

Hai năm trước, giấy phép kinh doanh quá dễ dàng, thiếu cân nhắc dẫn đến số lượng công ty siêu lớn gia tăng trong thời gian ngắn, trong khi số lượng công ty có khả năng tài chính tốt không lớn. Nhiều công ty vốn tự có chỉ vài chục triệu USD nhưng vẫn tiếp tục xây dựng và vận hành vốn nhượng quyền, rồi tìm cách xoay sở dự án, vay ngân hàng hoặc bên ngoài. Một bằng chứng là có bao nhiêu người trong nướcTôi có thích các doanh nghiệp có xếp hạng tín nhiệm cao không? Trên thực tế, Standard & Poor’s vẫn phân loại nền kinh tế Việt Nam là đầu cơ, vào nhanh và thoát nhanh, thay vì đòi hỏi nhiều dự án đầu tư dài hạn. Xếp hạng của các công ty Việt Nam vẫn bằng hoặc thấp hơn xếp hạng quốc gia, nhưng trước tình trạng phá sản quy mô lớn như hiện nay, Việt Nam phải thực hiện như thế nào? ? Bà Hương cho rằng dưới tình hình kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa chạm đáy. Đây là điều kiện tốt nhất để tái cấu trúc và sàng lọc công ty. Vì vậy, bộ phận quản lý phải phân loại công ty theo 3 cấp độ: Bên cạnh những công ty tồn đọng mà ngân hàng đang cố gắng giữ chân, đối với những công ty có tiềm lực vượt khó, nếu tồn tại được thì công trình / dự án. Ngân hàng phải bơm vốn. Ngược lại, một công ty phá sản phải được giải quyết trong trường hợp phá sản.

(Theo VnEconomy)

Leave a comment

link bet365 mới nhất_đặt cược bet365_Bet365 bảo mật không?