So với hai ngân hàng năm ngoái, số lượng “câu lạc bộ” năm nay là ba nghìn tỷ đồng. Báo cáo tài chính và thống kê dự báo tài chính của các công ty chứng khoán và hệ thống ngân hàng năm 2019 có thể đăng ký 7 công ty có lợi nhuận vượt quá 10 nghìn tỷ đồng, bao gồm VietBank, FrancesBank, Agribank, TOUR, TechBank, VPBank và MB .
Đối với các ngân hàng có trên 1 tỷ đồng, mỗi ngân hàng có những đặc điểm và phương thức khác nhau.
Xếp hạng trong bảng xếp hạng 7 ngân hàng đã đạt 1 nghìn tỷ đồng. Ảnh: Tharu – người phụ trách nhóm “bốn ông lớn” và ngân hàng có lợi nhuận cao nhất trong hệ thống là VietBank. Động lực tăng trưởng của họ là sự cộng hưởng của nhiều yếu tố, bao gồm hoạt động kinh doanh cốt lõi của một cơ sở khách hàng lớn, chi phí vốn thấp hơn, tăng trưởng phí cao hơn, lợi thế của ngành tiền tệ và tiềm năng bán chéo bảo hiểm. . Các ngân hàng “Big Four” như VietBank, XXXBank, TOUR và Agribank đã xuất hiện trong “Trillion Group”. Năm 2018, lợi nhuận của Ngân hàng Viễn thông Việt Nam của tập đoàn chỉ vượt 10 nghìn tỷ đồng. Theo thông báo của ngân hàng, lợi nhuận trước thuế năm 2019 của Ngân hàng Viễn thông Việt Nam vượt quá 1 tỷ đô la Mỹ, gần như là lợi nhuận trước thuế của ngân hàng địa phương Hai lần. thứ hai. Tuy nhiên, các nhà phân tích tin rằng kết quả này vẫn “vừa phải” bởi vì nếu nó có thể xác nhận toàn bộ chi phí của hợp đồng bảo hiểm đã ký với FWD, lợi nhuận của Vietkut có thể tiếp tục tăng so với các hệ thống khác. . Theo báo cáo của VCSC, đến năm 2022, Ngân hàng Viễn thông Việt Nam có thể trở thành công ty niêm yết đầu tiên đạt lợi nhuận 2 tỷ đô la Mỹ .
– Khi kế hoạch tái cấu trúc chậm lại trong nửa cuối năm 2018, Ngân hàng Viễn thông Việt Nam sẽ hợp tác với Việt Nam Hợp tác ngân hàng. Từ quan điểm cấu trúc, ngân hàng này đã kiếm được một khoản lãi 11,5 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2019, tăng 83%. Do tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam vẫn ở mức một con số, kết quả này được coi là “bất ngờ”. Một đại diện ngân hàng cho biết, hiệu suất trong năm 2019 là do sự thay đổi tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, tăng thu nhập ngoài lãi và chuyển từ bán hàng cá nhân sang bán hàng chung. vượt qua. Hạn chế về vốn như AmyBank và BIDV chỉ tăng hơn 12% trong năm 2019, thấp hơn mức trung bình của ngành. Tuy nhiên, ngân hàng cũng báo cáo lợi nhuận trước thuế hơn 10,8 nghìn tỷ đồng, tăng gần 14% so với năm 2018 và tăng gần 5% so với kế hoạch.
Giới hạn lợi nhuận của “Big Four” là 10 nghìn tỷ USD. Nhóm này bao gồm TechBank, VPBank và MB. Tuy nhiên, so với các ngân hàng công và ngân hàng tư nhân, sự xáo trộn lớn hơn.
Nếu không có thay đổi lớn, Techkut có thể là ngân hàng cao thứ hai trong hệ thống và vị trí của nó trong năm 2018 cũng tương tự. Theo báo cáo tài chính được công bố gần đây, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng vượt quá 12,8 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 20% so với năm trước. Tuy nhiên, cơ cấu lợi nhuận của Techkut đang thay đổi.
Trong vài năm qua, ban lãnh đạo TechBank thường đề cập đến cụm từ “lợi nhuận cao nhưng rủi ro thấp”. Hai khía cạnh dường như mâu thuẫn này xuất phát từ cấu trúc hoạt động cụ thể gắn liền với hệ sinh thái của các khách hàng quy mô lớn (như Vingroup, Masan hay Vietnam Airlines). Bằng cách tham gia vào cơ sở khách hàng với các đối tác tuyệt vời, Techkut có thể kiểm soát rủi ro và có được tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với đối thủ cạnh tranh. Đồng thời, do lãi suất cao của tiền gửi không kỳ hạn (CASA), chi phí vốn thấp hơn.

So với giai đoạn trước, tốc độ tăng trưởng cho vay hàng năm của Techkut trong giai đoạn này cũng không đáng kể. Cuộc đua đến bờ biển khác có cùng kích thước. Thay vào đó, ngân hàng chia sẻ mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong kênh đầu tư trái phiếu và tỷ lệ nắm giữ trái phiếu của các tổ chức kinh tế đứng đầu trong hệ thống ngân hàng. Năm 2018, cho vay khách hàng của Techkut không tăng, nhưng thu nhập lãi thuần vẫn tăng 24% và lợi nhuận trước thuế tăng 34%. Tỷ lệ lợi nhuận / tổng doanh thu đạt 58%. Tuy nhiên, Techodar đã thay đổi vào năm 2019. Kể từ năm 2018, tỷ lệ lợi nhuận trên tổng doanh thu vẫn ở mức khoảng 60%, nhưng ngân hàng đã bắt đầu tăng cường các kênh tín dụng, đặc biệt là ngành bán lẻ và đã đưa ra một hướng đi mới từ “cái bóng” của các đối thủ cạnh tranh. .
Tăng trưởng cho vay của Tech vũ trụ vượt quá 44%, cao hơn mức tăng trưởng tín dụng ngân hàng để giảm trái phiếu doanh nghiệp. Đến năm 2019, tổ chức kinh tế quốc gia trái phiếu từ thiện sẽ giảm khoảng 28 nghìn tỷ đồng. -Nếu TechBank chọn tăng trưởng, thay vì như trước đây, VPBank sẽ tập trung vào chiều sâu và chọn quản lý số dư chưa thanh toán sau một thời gian tăng trưởng mạnh. – Ngoài tăng trưởng hai con số, những thay đổi của VPBank trong năm 2019 cũng tập trung vàoNgười này đã đóng tất cả trái phiếu VAMC. Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng mẹ VPBank (bao gồm cả nợ tồn đọng của VAMC) đã giảm từ 4,01% vào cuối năm 2018 xuống còn 2,18%. Tỷ lệ cho vay không hợp nhất là dưới 3%.
Cơ cấu hoạt động theo định hướng bán lẻ, tín dụng tiêu dùng rủi ro cao, kiểm soát nợ xấu và chi phí hoạt động đã tạo ra cơ hội cho VPBank trong vài năm tới. Báo cáo mới nhất của SSI ước tính rằng lợi nhuận của VPBank trong năm 2020 có thể gần với TechBank và BIDV, đạt hơn 13 nghìn tỷ đồng. Theo thông báo của ngân hàng, lợi nhuận trước thuế MB MB 2019 vượt 10 nghìn tỷ đồng, tăng 29% so với năm 2018 và đã vượt 5% so với kế hoạch kể từ đầu năm. Từ quan điểm của hệ thống ngân hàng, động cơ tăng trưởng chính của MB vẫn đến từ “bếp tín dụng”, với mức tăng trưởng tín dụng gần 16%, cao hơn mức trung bình của ngành. Đặc biệt, ngân hàng này tập trung vào các nhóm khách hàng cá nhân và các khoản vay tăng 23%. Tỷ lệ dư nợ cá nhân tăng từ 36,0% năm 2018 lên 38,4% năm 2019.