Với sự tăng trưởng tích cực, ngân hàng vẫn là một trong những lĩnh vực hoạt động tích cực nhất trong bối cảnh đại dịch. Mặc dù các ngân hàng lớn vẫn là những cái tên quen thuộc nhưng bảng xếp hạng lợi nhuận trong nửa đầu năm cho thấy sự biến động lớn hơn. Trong đó, thay đổi lớn nhất là chênh lệch về tăng trưởng lợi nhuận giữa các ngân hàng, bao gồm cả trong nhóm công chúng và giữa nhóm ngân hàng với nhóm ngân hàng tư nhân. – Đối với nhóm ngân hàng quốc doanh, có thể thấy VietinBank và ba ngân hàng còn lại có sự chênh lệch về lợi nhuận. Kết quả là, trong khi Ngân hàng Việt Nam tăng đáng kể lợi nhuận của mình, lãi suất của ba ngân hàng còn lại giảm.
Ngân hàng Việt Nam vẫn dẫn đầu về lợi nhuận, và ngân hàng đã giữ vững vị trí này trong những năm gần đây. nhiều năm. Tuy nhiên, so với khoảng cách chênh lệch gần gấp đôi của ngân hàng kế nhiệm năm 2019, khi Vietcombank ghi nhận mức tăng trưởng âm trong sáu tháng đầu năm nay, thì khoảng cách đã được thu hẹp. Lợi nhuận trước thuế đạt gần 1.100 tỷ đồng, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước.
Sự phát triển của báo cáo tài chính ngân hàng liên quan đến các thành phần chính của hoạt động. Trong đó, tổng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh giảm hơn 5%, mà nguyên nhân chủ yếu là do thu nhập lãi thuần – “nồi cơm” chính của ngân hàng.
Vietcombank, BIDV và Agribank đều tăng trưởng âm. Đại diện Ngân hàng Nông nghiệp cho biết, lợi nhuận nửa đầu năm ước tính chỉ vượt 40% kế hoạch, thấp hơn cùng kỳ năm trước 35-40%. Lợi nhuận trước thuế của VIP cũng giảm hơn 5% xuống còn 4,454 tỷ đồng. Cũng như Vietcombank, sự tăng trưởng yếu kém của BIDV và Agribank xuất phát từ lĩnh vực kinh doanh cốt lõi là tăng trưởng tín dụng yếu và kế hoạch lãi suất giảm. Một trong 5 ngân hàng thú vị nhất. Năm 2019, Ngân hàng Nông nghiệp là ngân hàng có lãi cao thứ hai trong hệ thống sau Ngân hàng Viễn thông Việt Nam, và lợi nhuận của BIDV đứng trong top 5. Nó đã là Ngân hàng Quốc gia kể từ đầu năm. Phó Thống đốc Từ Minh Tú từng cho biết, để hỗ trợ lãi suất giảm, lợi nhuận ngân hàng đại chúng năm 2020 có thể giảm ít nhất 30 – 40%. Khi lãi sáu tháng đầu năm tăng đột biến. Kết quả, ngân hàng lãi 7,4 nghìn tỷ đồng, tăng gần 40% so với cùng kỳ năm trước, đứng thứ 2 hệ thống, chỉ đứng sau Ngân hàng Viễn thông Việt Nam. Tuy nhiên, con số này không phản ánh các hoạt động chính, chủ yếu do giảm dự phòng rủi ro. Dự phòng rủi ro tín dụng của VietinBank gần như giảm một nửa trong quý hai, đã giảm hơn 10% trong sáu tháng đầu năm. Số tiền trích lập và sử dụng đều thấp hơn so với cùng kỳ năm 2019.
Cuối quý II, tổng giá trị nợ xấu của ngân hàng (3-5 nhóm nợ) đã tăng 50%. Trong số đó, nợ nhóm thứ ba đã cao hơn gấp ba lần vào cuối năm 2019 và nợ nhóm thứ tư gần như tăng gấp đôi.
Xếp hạng lợi nhuận 6 tháng của ngân hàng. Đồ họa: Tá Lả .—— Lãi tăng do dự trữ giảm của VietinBank không phải là trường hợp cá biệt. Mặc dù thu nhập lãi thuần gần như đi ngang nhưng lợi nhuận của VPBank trong quý II đã tăng gần 40%. Kết quả này một phần là do chi phí dự phòng phải thu khó đòi giảm 17%.

Nhưng khác với Ngân hàng Việt Nam, quy mô nợ xấu của VPBank không tăng. Ngoài ra, việc trích lập và sử dụng trong 6 tháng cũng cao hơn so với cùng kỳ.
Cũng bị ảnh hưởng bởi các khoản trích lập dự phòng, nhưng cách làm của Techcombank thì ngược lại. Lợi nhuận sáu tháng của ngân hàng chỉ vượt quá 6,7 nghìn tỷ đồng, tăng 19%, mặc dù tổng thu nhập hoạt động tăng 30%. So với mặt bằng chung, con số này cao tới 19%, nhưng so với các ngân hàng có mức tăng trưởng tương đương (như VietinBank hay VPBank) thì chưa bằng một nửa. Kết quả là lợi nhuận của Techcombank tụt xuống top 3.
Nguyên nhân là do chi phí trích lập dự phòng 6 tháng của ngân hàng đã tăng hơn 5 lần. Như đã đề cập trước đó, Techcombank đã sử dụng hơn 1,7 nghìn tỷ đồng để giải quyết rủi ro trong nửa đầu năm nay. Nhờ đó, tỷ lệ nợ xấu cuối quý II giảm xuống dưới 1%, riêng nợ nhóm 5 giảm 65% so với cuối năm 2019, còn hơn 900 tỷ đồng. Một số chuyên gia tin rằng việc sử dụng các khoản dự phòng rủi ro “khác nhau” là một yếu tố điều chỉnh tăng trưởng. Điều này thể hiện cách tính riêng của từng ngân hàng, không phải xu hướng của toàn ngành.
Theo quy định tại Thông tư 01, các khoản nợ cơ cấu lại do chuyển đổi tỷ giá sẽ vẫn thuộc nhóm nợ cũ. (Chưa chuyển thành nợ khó đòi), thời hạn tối đa là 12 tháng. Do đó, việc một số ngân hàng giảm dự trữ trong giai đoạn hiện nay cũng đáp ứng yêu cầu. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu thực tế của hệ thống ngân hàng có thể cao hơn. Không bị xếp vào loại nợ xấuTuy nhiên, nhiều ngân hàng nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày đã tăng từ hàng chục% đến 100%. Số dư tiền gửi tài chính công .
Tại thời điểm cuối quý II, tiền gửi tài chính công có kỳ hạn tại BIDV đã giảm 85% so với đầu năm. Tại Ngân hàng Việt Nam, con số này cũng giảm 37%. Về phía Ngân hàng Viễn thông Việt Nam, số dư hàng tồn kho quốc gia thậm chí còn giảm mạnh hơn, từ 89.288 tỷ đồng đầu năm xuống còn dưới 1.000 tỷ đồng, giảm gần 90%. Thực tế là do quy định mới của Bộ Tài chính. Các khoản tiền gửi thanh toán của Kho bạc nên được chuyển đến Ngân hàng Quốc gia, thay vì được lưu trữ trong các ngân hàng thương mại và tiền gửi có kỳ hạn phải được thực hiện thông qua đấu thầu. Đây là một phần áp lực đối với tập đoàn này trong nửa cuối năm, khi hàng tồn kho quốc gia đang là lợi thế lớn trong cuộc cạnh tranh huy động vốn.